Dân ca quan họ bắc ninh được hình thành khá lâu đời,do cộng đồng
người Việt(Kinh) ở 49 làng quan họ và một số làng lân cận thuộc hai tỉnh
Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay của Việt Nam sáng tạo ra.
Dân ca quan họ là hát đối đáp nam,nữ. Họ hát quan họ vào mùa xuân,mùa
thu khi có lễ hội hay khi có bạn bè. Một cặp nữ của làng này hát với một
cặp nam của làng kia với một bài hát cùng giai điệu, khác về ca từ và
đối giọng. Cặp hát phân công người hát dẫn, người hát luồn nhưng giọng
hát của hai người phải hợp thành một giọng. Họ hát những bài ca mà lời
là thơ,ca dao có từ ngữ trong sáng, mẫu mực thể hiện tình yêu lứa đôi,
không có nhạc đệm kèm theo. Có 4 kỹ thuật hát đặc trưng : Vang,rền nền,
nảy. Hát quan họ có 3 hình thức chính :Hát canh,hát thi lấy giải,hát
hội. Hát quan họ gắn liền với tục kết chạ, tục kết bạn giữa các bọn quan
họ,tục “ngủ bọn”. Mặc dù các phong tục này không được thực hành nhiều
như trước đây, cộng đồng cư dân các làng quan họ vẫn bảo tồn và truyền
dạy nghệ thuật dân ca quan họ này.
Trang phục quan họTrang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục
của các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang
phục quan họ.
Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới
quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai
áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the,
hoặc đối với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn mầu đen, cũng
có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc
the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu
vàng chanh…gọi là áo kép. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng,
may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu may quần cũng bằng
diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để
thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời
trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu.
Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn
xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện.Trang phục quan họ :
http://www.quanho.org/quanho/trang-phuc-quan-hoNhận diện cộng đồng có liên quan đến quan họ Bắc NinhChủ nhân của dân ca quan họ Bắc Ninh là người Việt(Kinh) cư trú ở hai
tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang hiện nay sinh sống bằng nghề trồng lúa
nước và nghề thủ công.Các làng quan họ nằm hai bên bờ sông cầu, cách thủ
đô Hà Nội về phía bắc khoảng 30km.Các làng này quy tụ gần nhau trong
một không gian với diện tích khoảng 60km2.
Theo kết quả điều tra và kiểm kê,năm 1962 có 72 nghệ nhân,trong đó có 50
người từng hát quan họ trước tháng 8-1945,năm 1972 trong 27 làng quan
họ ở Bắc Ninh còn gần 100 nghệ nhân đã tham gia sinh hoạt quan họ những
năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX,năm 2003,riêng tỉnh Bắc Ninh có 59
nghệ nhân,có 6 nghệ nhân đề nghị phong danh hiệu báu vật nhân văn sống,
nhưng nay 2 người đã chết, 4 người còn lại là Nguyễn Văn Thị,Ngô Thị
Nhi,Vũ Thị Trịch,Nguyễn Thị Nguyên.Năm 2008, theo kết quả kiểm kê 49
làng quan họ cổ có 1417 nghệ nhân và những người thực hành quan họ có độ
tuổi từ 12 đến 98.
Vị trí và phạm vi địa lí của di sản văn hóa quan họ Bắc NinhĐến đầu thế kỉ XX, Dân ca quan họ Bắc Ninh được thực hành ở 49 làng
mà cộng đồng xác định là làng quan họ cổ, 44 làng hiện nay thuộc tỉnh
Bắc Ninh: Bái Uyên, Duệ Đông, Hạ Giang, Hoài Thị, Hoài trung,Lũng Giang,
Lũng Sơn, Ngang Nội, Vân Khám (huyện Tiên Du); Tam Sơn, Tiêu (huyện Từ
Sơn); Đông Mai, Đông Yên (huyện Yên Phong); Bồ Sơn, Châm Khê, Cổ Mễ,
Dương Ô, Đẩu Hàn, Điều Thôn, Đông Xá, Đỗ Xá, Hòa Đình, Hữu Chấp, Khà Lễ,
Khúc Toại, Ném Đoài, Ném Sơn, Ném Tiền, Niềm Xá, Phúc Sơn, Thanh Sơn,
Thị Chung, Thị Cầu, Thọ Ninh, Thượng Đồng, Trà Xuyên, Vệ An,Viêm Xá,
Xuân Ái, Xuân Đồng, Xuân Ô, Xuân Viên, Y Na, Yên Mẫn (thành phố Bắc
Ninh). Có 05 làng thuộc tỉnh Bắc Giang: Giá Sơn, Hữu Nghi, Nội Ninh, Mai
Vũ, Sen Hồ (huyện Việt Yên).
Ngoài ra ở 13 làng: Đình Cả. Đông Long, Khả Lý Thượng, Núi Hiếu, Mật
Ninh, Quang Biểu, Tam Tầng, Thần Chúc, Tiên Lát Hạ, Tiên Lát Thượng, Thổ
Hà, Trung Đồng, Vân Cốc (huyện Việt Yên) của tỉnh Bắc Giang, Dân ca
quan họ Bắc Ninh cũng được thực hành. Đây là những làng nằm trong vùng
lan tỏa của di sản này.
Đặc thù của quan họDân ca quan họ Bắc Ninh là hát đối đáp nam nữ. Hiện nay vẫn chưa có
câu trả lời cuối cùng về thời điểm ra đời của Dân ca quan họ trong lịch
sử. Đối chiếu lời của các bài quan họ trong sự phát triển của Tiếng
Việt, có thể nghĩ rằng Dân ca quan họ phát triển đến đỉnh cao vào giữa
thế kỉ XVIII, Chủ nhân của quan họ là những người nông dân Việt (Kinh),
chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước.
Mỗi làng quan họ đều có lễ hội riêng. Quan họ tồn tại song hành cùng lễ
hội làng, nơi mà người dân thờ thành hoàng, nữ thần, một đôi trường hợp
là tín ngưỡng phồn thực.
Trong số các lễ hội làng quan họ, hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh) mở vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội lớn nhất.Đặc thù của quan họ :http://www.quanho.org/quanho/dac-diem-quan-ho
Bảo tồn phát triển quan họTừ năm 1954, chính quyền địa phương rất quan tâm đến bảo tồn và phát
huy giá trị của di sản quan họ. Năm 1962, tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức Hội
nghị Quan họ lần 1/1962. Từ năm 1963 đến 1966, tỉnh Hà Bắc (gồm hai tỉnh
Bắc Ninh và Bắc Giang), đã tổ chức 06 hội thảo về quan họ. Năm 1969,
Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh được thành lập để bảo tồn, phát triển và
trình diễn dân ca quan họ. Tỉnh Hà Bắc thành lập trung tâm văn hóa quan
họ để sưu tầm nghiên cứu nhằm bảo vệ quan họ. Tỉnh Bắc Ninh trong quyết
định số 1357/QĐ-CT ngày 19-11-2003 đã quy hoạch khu đồi Lim (huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh) thành khu trung tâm lễ hội dân gian, để trình diễn
quan họ. Năm 2004, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh thực hiện dự án
bảo tồn làng quan họ Viêm Xá. Hằng năm, hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang tổ
chức hội thi hát đối đáp quan họ vào mùa xuân để phát hiện những giọng
ca mới.Duy trì phat triển quan họ :
http://www.quanho.org/quanho/phat-trien-quan-hoQuan họ được UNESCO công nhận là di sản nhân loạiVào lúc 19.55 (giờ Việt Nam, tức 16.55 giờ Abu Dhabi), Quan họ đã
được Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật
thể long trọng công bố là Di sản phi vật thể đại diện của Nhân loại.
TS Lê Thị Minh Lý – Cục phó Cục di sản văn hóa, TS Nguyễn Chí Bền –
Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật, ông Phạm Sanh Châu – Tổng thư ký Ủy
ban quốc gia UNESCO Việt Nam “dồn dập” thông báo “tin nóng” từ Abu
Dhabi, thủ đô của Tiểu vương quốc A rập thống nhất, nơi đang diễn ra kỳ
họp lần thứ 4 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản
văn hóa phi vật thể (từ ngày 28/9 – 2/10/2009).